[ New messages · Members · Forum rules · Search · RSS ]
  • Page 1 of 1
  • 1
Archive - read only
TAM KỲ NGŨ ĐỨC LƯƠNG CHÂM
trongtp Friday, 21-05-2010, 7:27 PM | Message # 1
Colonel
Nhóm: Postor
Bài viết: 164
Danh tiếng: 0
TAM KỲ
NGŨ ĐỨC LƯƠNG CHÂM

Đức Hộ Pháp PHẠM CÔNG TẮC

Vì tấm lòng từ bi nhân ái của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế không nỡ nhìn chúng ta phải đoạ đày trong vòng mạt kiếp, nổi chìm trong bể trầm luân, nên Ngài một dạ thương đời ba lần giáng thế đem Đại Đạo mà phổ độ chúng sanh, lấy Đại Đạo mà phổ độ chúng sanh, lấy đại đức mà hoàng khai cho thế giới. Ôi, tấm lòng thuỳ từ mẫn khổ của Ngài ân cần châu tất biết là chừng nào!

Thế cuộc dầu tan, nhơn tình dầu bạc, song cái hồn đạo đức cũng chưa thiệt đến nổi tuyệt vọng. Cho nên từ khi Đại Đạo mở mang, không bao lâu mà thiện nam,tín nữ thập phương tôn sùng tín ngưỡng kể có hơn triệu người. Mối Đại Đạo Tam Kì Phổ Độ đã nghiễm nhiên trở thành một nền Tôn giáo to tát; như vậy chúng ta há chẳng mừng lắm sao? Bần Đạo chẳng cần phải nói chắc chắn chư Đạo hữu cũng tự biết rằng: mình là người Đạo đức thì tức phải tìm tòi con đường đạo đức mà đi, noi theo công bình đạo đức mà làm. Điều đó đã hẳn, song thiết tưởng chư Đạo hữu lại cũng cần nên biết rằng: Đạo đức trọng ở tinh thần chớ không trọng ở hình thức, chẳng quý ở vật chất mà quý ở thực hành, nếu ta muốn nên người đạo đức chơn chánh thì trước hết ta phải thực hành những các cái đức tính về đạo đức đã. Vì đức tánh tốt mới mong đạo đức hoàn toàn, nếu không cũng chỉ như người bận áo cà sa mà nhận mình là Bồ Tát. Như vậy chẳng qua là mình tự lầm mình, chẳng những thẹn với lương tâm, mà lại đắc tội với Thượng Đế, Thánh Thần, Tiên Phật nữa. Bấy lâu nay Bần Đạo hàng ngày gia tam quan soát về cái tình hình trong bổn đạo, thấy sự tín ngưỡng không phải là không nhiệt thành, lòng cầu đạo không phải là không sốt sắng. Song, ít thấy tinh thần mà là phần vật chất, có bề hình thức mà chẳng thấy thực hành, trật tự thì lộn xộn, lễ nghĩa cũng mờ hồ. Các Tín đồ đạo hữu đối với nhau dường như bơ thờ lạt lẽo, không có chút liên lạc cảm tình. Ngó về phương diện đức tính thiệt còn nhiều điều khuyết điểm, đến đỗi Đức Chí Tôn quảng đại từ bi mà cũng từng phen giáng cơ sắc lịnh quở trách. Ôi! Tâm hạnh là cửa, đạo đức là nhà, chúng ta muốn vô nhà mà không qua cửa thì phỏng có được chăng?
Bần Đạo cũng là một người đang tập noi theo con đường đạo đức cùng chư Đạo hữu đã từng ngó thấy cái hiện tình của Đạo ta, như thế thì Bần Đạo há để được mà không sinh hoạt mật tấn hoằng hoại sao?

Bởi vậy cho nên nay Bần Đạo trên thể lòng ĐỨC CHÍ TÔN "NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ", dưới tỏ bày cùng chư Đạo Huynh, Đạo Tỷ đồng môn tự, nghĩ ra năm điều cốt yếu về cái đức tính của nguồn Đạo, viết ra sau này đề nhãn là Đại Đạo "Tam Kì Phổ Độ Ngũ Đức Lương Châm" đặng cống hiến cùng chư Đạo hữu. Ý dầu hẹp, lời dầu quê, song cứ hàng ngày trao dồi năm điều đó cho đặng hoàn toàn thì con đường đạo đức cũng không xa vì vậy.

Xưa nay các nhà Tôn giáo đạo đức cùng các nhà triết học lý khoa đều có làm ra sách vở để giảng minh các tôn chỉ học thuyết của mình, kể hàng thiên kinh vạn quyển, song chỉ rút lại thì cũng chỉ do mấy điều đại cương tâm đức mà ra cả. Như Đạo Nho thì lấy Tam Cang, Ngũ Thường làm gốc, Phật Đạo thì lấy Tam Quy Ngũ Giới làm đầu, Đạo Tiên thì lấy Tam Huê Ngũ Khí làm trọng.

Nay nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chúng ta cung nêu theo cái trình độ Đạo đức, tìm kiếm những điều có bổ ích cho nhơn tâm thế đạo đời nay để làm lương châm cho hết thảy các tín đồ đạo hữu, thì Bần Đạo xin tuyên bố và thuyết minh năm điều ra sau này. Chữ "Hoà", Chữ "Nhẫn", Chữ "Khiêm", Chữ "Cung", Chữ "Ái". Năm điều này tức là năm điều Cương mục của Đạo ta. Bởi vậy Bần Đạo kính dâng Bửu Danh là TAM KỲ NGŨ ĐỨC LƯƠNG CHÂM

Ai người tín ngưỡng tôn sùng Đại Đạo thì đều phải hiểu biết mà hàng ngày gia tâm trau giồi đức tính cuả mình đặng hoàn toàn nhiên hậu mới phải là người Đạo đức.

Nay Bần Đạo xin giảng giải năm điều lương châm ấy ra sau này.

 
trongtp Saturday, 22-05-2010, 8:37 PM | Message # 2
Colonel
Nhóm: Postor
Bài viết: 164
Danh tiếng: 0
Chữ HOÀ

HÒA là thuận vui hòa. Trong kinh Lễ có nói rằng: "Lễ dĩ hòa vi quý", nghĩa là: Lễ thì lấy chữ hòa làm quý, ý nói lễ nghi tuy phiền phức mặc lòng, song rút lại chỉ lấy chữ hòa làm gốc vì ngoài mặt có hòa nhã thì trong tâm mới có thành kính, có tâm thành thì Lễ mới có long trọng. Nếu như có lễ mà không hòa thì dầu Lễ to lớn đến đâu cũng là vô ích và Thánh Thần cũng không hưởng chứng. Thầy Mạnh Tử có nói rằng: "Thiên thời bất như địa lợi, Địa lợi bất như nhân hòa." Nghĩa là: thời Trời không bằng lợi đất, lợi đất không bằng người hòa, ý nói thiên dầu thuận, địa lợi dầu phúc, song chỉ trông cậy ở bề ngoài mà thôi, không thể lâu dài đặng, sự bền vững còn cần phải ở nhân hòa, nhơn có hòa thì mới có tình liên lạc, mới có được thực hành trường cửu được. Nói cho đúng thì mưa đều gió thuận, cũng không tốt bằng lòng người, nếu lòng người mà đặng hòa thuận cùng nhau một tình đoàn thể coi như con cuốn chiếu trăm chơn. Dẫu cường bạo nào dùng cường lực mạnh mẽ cũng không thể áp chế đặng. Nếu mỗi người đều mỗi dạ chia rẽ chẳng ai hoà thuận cùng ai, lại anh em cùng nhau kích bác, nòi giống coi như khấu thù, nhơn tâm đã bất hòa thì Đạo đâu mà sanh ra đặng bảo tồn loài người - mà đến đạo đức không có thì còn trông cậy nỗi gì? Thành cao hào sâu liệu đủ cậy chăng? Mưa hoà gió thuận liệu đủ nhờ chăng? Nói tóm lại một chữ Hoà có thể bền hơn thành sắt, mạnh hơn súng đồng, mà địa lợi, thiên thời cũng chẳng bằng vậy.

Đời Tam Quốc có ông Lưu Tiên Chúa duy lấy hai chữ Nhơn Hoà mà thắng cả Thiên thời địa lợi làm cho Tào Tháo lắm trận kinh hồn, Tôn Quyền nhiều phen hú vía. Ôi! Xem thế đủ biết một chữ Hoà mạnh mẽ là dường nào chăng?

Trong Kinh Thi có câu rằng: "Âm Dương hoà võ trạch giáng. Phu phụ hoà gia đạo thành." Nghĩa là khí Âm, khí Dương có hòa thì mưa nhuần rưới khắp, vợ chồng có hoà thì đạo nhà mới nên. Trong Kinh Thi có câu rằng: "Hiệp hòa vạn bang." Nghĩa là phải hiệp hòa muôn nước. Ấy, đến Trời Đất Âm Dương cùng các bậc thượng cổ Đế Vương còn phải lấy chữ Hòa làm gốc, mà còn truân chuyên đến thế, huống chi chúng ta ngày nay sao!

Nói tóm lại mọi việc ở đời phải lấy chữ Hòa làm Lương châm thực hiện. Thế giới có hòa thì mới được thái bình thạnh vượng, quốc gia có hòa thì mới được tiến bộ văn minh; thân tộc có hòa mới được sum vầy vui vẻ, cha con có hòa mới trọn điều từ hiếu; anh em có hòa mới biết đạo thương yêu, vợ chồng có hòa thì mới nên cửa nhà đồ sộ; bậu bạn có hòa thì mới hết lòng tín nghĩa; bậc quan trường có hòa thì mới biết sự vẻ vang, người phú túc có hòa thì mới được phần sung sướng. Đạo đức có hòa thì mới được hoàn toàn. Tôn giáo có hòa thì mới nên trường cữu.

Trên đây nói về phần công dụng kết quả của chữ Hòa, còn về phần thực hành của chữ Hòa thì ta cần phải nên hiểu biết hòa đây là hòa thuận, ăn ở một cách hòa thuận, công bằng. Đối với mình, đối với người bao giờ cũng giữ cái thái độ thung dung hoà lạc, không có một chút gì là tự tâm, xử kỷ tiếp vật, bao giờ cũng sẵn tấm lòng lượng thứ bao dung. Người mà giữ trọn đặng chữ Hòa thì trong tâm hồn sẽ đặng thơ thới thảnh thơi, mà tự nhiên chẳng còn chút cặn nhơ ô trược nữa. Tuy nhiên cũng có nhiều nghĩa ta chớ khá nên lầm.

Đức Khổng Tử có nói rằng: " Quân Tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa." Nghĩa là người quân tử hòa thuận mà không đồng đảng, còn tiểu nhân thì đồng đảng mà không hòa thuận. Ấy chữ Hòa với chữ Đồng nghe tựa như giống nhau mà xét kỹ ra thì khác nhau xa lắm. Hòa thì chỉ một mực công bằng, còn đồng thì đồng đảng. Nghĩa là tựu hội thành quần, thành đảng, có ý tư mà không có công, chớ chẳng có giá trị gì, đó là điều giả mạo của kẻ tiểu nhơn thường làm. Nếu ta không cẩn thận thì hoặc có khi lầm lạc.

Chúng ta ngày nay nhờ ơn Đức Chí Tôn hoằng khai Đại Đạo mà Phổ Độ cho chúng sanh thì chữ Hòa lại cần hơn hết.
Vì sao? Vì muốn nên người đạo đức thì cần phải có cái đức tánh cho hoàn toàn, một chữ Hòa đầu phần đức tánh của ta vậy. Ta phải hiểu biết rằng: có hòa thì mới biết thương yêu nhau, trìu mến nhau, mới kết nên dây đoàn thể đặng. Một chữ Hòa thiệt khiến cho ta cảm tình vô hạn. Về phần Đạo, đức tính khác tưởng chẳng khó gì, bởi vẫy trước hết Bần Đạo xin hiến dâng chư Đạo hữu một chữ Hòa để làm nấc thang bước lên con đường đạo đức và xin đừng quên bốn chữ Hòa Khí Tứ Tường. Nghĩa là Khí Hòa rất tốt thiệt là may cho nền Đạo Đức lắm vậy.

Message edited by trongtp - Saturday, 22-05-2010, 8:37 PM
 
trongtp Monday, 24-05-2010, 7:37 PM | Message # 3
Colonel
Nhóm: Postor
Bài viết: 164
Danh tiếng: 0
Chữ NHẪN


NHẪN là kiên nhẫn, nhẫn nại là chịu nhục lạng lẽ cái điều đáng giận mà mình không giận, dằn ép tam bành lục tặc của mình cho đặng bình tĩnh luôn luôn, không bao giờ để cho cái ma chướng ở ngoài nó làm cho dời đổi 8...Nhẫn là một đức tính rất hay của loài người. Người mà một đời thực hành được chữ nhẫn cho tròn tưởng cũng là rất khó vậy. Nhứt là về phương diện đạo đức thì chữ nhẫn lại cần hơn hết. Đức Khổng Phu Tử có nói rằng: "Tiểu bất nhẫn tắc loạn đại mưu." Nghĩa là điều nhỏ mà nhẫn được, thì cái mưu lớn ắt phải hư vậy. Ở đời ta thường thấy những việc nhỏ bằng cái tóc, vì không nhẫn được mà rồi xảy ra những việc sóng gió tày trời, nhiều khi gây ra cái họa giết mình cũng là vì lẽ đó.

Ông Quách Tử Nghi nhà Đường, hồi còn nhỏ đang đi học, một hôm coi sách Phật thấy câu rằng: "Hắc phong suy châu, phiêu nhập khổ hải"; nghĩa là luồng gió đen thổi chiếc thuyền vào trong bể khổ. Ông không hiểu cấu ấy ra sao, bèn đến một vị Hòa Thượng cầu vấn. Vị Hòa Thượng thấy hỏi vậy thì dùng một cách thịnh nộ cùng ông Tử Nghi rằng: "Mi còn con nít biết gì mà hỏi những câu đó." Ông Tử Nghi thấy Hòa Thượng trả lời bằng một cách khiếm nhã như vậy thì nổi giận hầm hầm, tím mặt lại. Lúc ấy vị Hòa Thượng bèn ung dung day lại cười mà cắt nghĩa cho ông Tử Nghi biết rằng: "Cái sự thịnh nộ của Công tử từ nãy đến giờ tức là luồng gió đen thổi chiếc thuyền trôi vào bể khổ đó." Ông Tử Nghi bây giờ mới tỉnh ngộ ra, bèn chắp tay tạ ơn Hòa Thượng đã dùng cách gián tiếp mà chỉ giáo cho mình. Ôi! Ở đời này biết bao nhiêu luồng gió đen thường lẩn quẩn ở xung quanh mình chúng ta, nếu chúng ta không hết sức lấy tấm lòng kiên nhẫn ra mà chống chỏi, thì cơ hồ cái thân chúng ta như một chiếc thuyền nhỏ kia sẽ có khi chìm đắm vào trong bể khổ mông mênh kia vậy.

Thầy Tử Trương đi chơi xa, trước khi đi có đến từ biệt Đức khổng Tử và xin Ngài dạy cho một đức tốt để học trọn đời. Đức Phu Tử bèn dạy rằng: "Hết thảy các đức tính ngưi72 ta duy có chữ nhẫn là hơn cả." Thầy Tử Trương hỏi: "Tại sao phải nhẫn?"

Đức Phu Tử nói: "Làm vua mà nhẫn được thì nước không hại và mới nên việc lớn. Quan lại bn phẩm vị mới cao thăng, anh em biet nhan thi` gia đình đặng phú quý; vợ chồng biet nhan thi` thân ái mới được trọn đời, bậu bạn biet nhan thi` danh nghĩa càng thêm; tự mình biet nhan thi` xa điềi họa hoạn." Thầy Tử Trương lại hỏi: "Nếu không nhẫn thì ra sao?"
Đức Phu Tử nói: "Làm vua chẳng nhẫn thì mình phải mang họa, nhà nước tất phải nguy. Quan lại chẳng nhẫn thì tức bị tù tội; anh em chẳng nhẫn thì phải chia lìa, vợ chồng chẳng biết nhẫn thì tình nghĩa phai lạt; bậu bạn chẳng biết nhẫn thì giao tình phải cách xa. Tự mình chẳng biết nhẫn thì họa hoạn theo liền."

Thầy Tử Trương ngậm ngùi than rằng: "Phải lắm, phải lắm. Khó thay, khó thay". Không biết nhẫn sao phải là người; chẳng phải người thì mới không biết nhẫn."

Đã chật giấy cạn lời chúng ta há nở mơ mơ màng màng như đui như điếc, mà không tỉnh ngộ hay sao!

Chúng ta thử nghĩ lại mà coi: sau một trận giông tố tất có ngã cây đỗ nhà. Sau khi một chuyến ba đào, tức có ghe chìm, tàu đắm. Nhiều khi qua những cơn thịnh nộ của ta rồi thường hay xảy ra nhiều điều thảm khóc âu sầu tai hại, đến khi ta biết ăn năn thì đã muộn quá rồi. Vậy mà ở đời có nhiều người trãi biết bao lần giông tố ba đào ấy mà vẫn không kiên nhẫn được chút nào, thiệt là đáng buồn lắm vậy!

Ngày xưa ông Trương Công nghệ chín đời đều ở với nhau một nhà, vợ chồng con cái có tới mấy trăm người mà trọn đời tuyệt nhiên không có điều xích mích, trong gia đình bao giờ cũng êm đềm, vui vẻ như khí hòa mùa Xuân.

Ngày kia, Vua nghe tin bèn giá ngự đến tại nhà ông, hỏi ông rằng: "Nhà ngươi dùng cách gì mà trong nhà đặng vui vẻ thuận hòa đến thế?" Ông Trương Công nghệ bèn viết một chữ: "NHẪN" thiệt lớn vào tấm giấy mà dâng lên cho Vua, Vua xem rồi lấy làm kính phục, liền ban cho ông một trái lê thử coi ông xử sự ra sao, ông liên sai cắt trái lê bỏ vào trong một cái thùng lớn đổ nước nấu sôi, rồi kêu hết thảy người ở nhà đến trước mặt mà cho uống mỗi người một muỗng, để gọi là chung hưởng ơn vua. Ôi! Tấm lòng nhẫn nại của ông đáng quý biết chừng nào! Đến nỗi nhà ông nuôi trăm con chó, bữa cơm ăn nếu thiếu một con nào, thì hết thảy cả bầy đều không ăn mà đợi. Ấy, sự nhẫn nại của ông kịp đến súc vật cũng nhẫn được như thế. Đời nay những kẻ không biết nhẫn mà nghe đến truyện ông thì há chẳng hổ mình lắm sao?

Tuy nhiên ta cũng cần phải phân biệt sự nhẫn nại với sự nhát gan nhu nhược, thấy việc thì sợ chỉ châm châm vào cúi ra lòn, họ đè xuống đất đen cũng cam chịu. Như vậy là nhục chớ chẳng phải là nhẫn. Những người đó chỉ là nhục cho Tôn giáo Đạo Đức mà thôi. Song cũng có khi kẻ bất đạo kia dùng cách vô lễ bạo hành đối đãi với ta, hkiến cho kẻ bàng quang phải tức giận mà ta cũng nhẫn nại được, chẳng phải có sợ gì họ đâu, chẳng qua là ta không chấp chi những kẻ vô đạo, thà rằng ta nhịn họ đi, thì cái lỗi họ tự khắc chiêu chương, mà đức tin ta lại càng tăng quang lên vậy.

Ngày xưa có hai anh em người kia bậc sang giàu tánh tình trung hậu, lại hay làm phước, làm đoan, vì vậy mà trong làng có tên tàn bạo kia sanh lòng ghen ghét thường thường tới nhà hai anh em mà kiếm điều gây lộn; song anh em người kia chỉ lấy một chữ nhẫn mà đối đầu, tên tàn bạo lại càng tức thêm. Một hôm nó đến nhà la chưởi um xùm, trước còn đứng ngoài ngõ, sau nó vô tận trong nhà mà chưởi bói thậm tệ, anh em người kia vân cứ điềm nhiên, như không nghe chi hết, và lại chẳng tỏ tính giận chút nào, đứa bất nhân vẫn chưa phỉ tình, bèn đến phun nước miếng vào mặt người em, người em cũng cứ ngồi yên, không dám cục cựa mà cũng không dám chạy, chỉ lấy tay vuốt mặt mà mà thôi. Người anh thấy vậy bèn dạy nhỏ em rằng: "Em cứ việc tự nhiên để cho người ta phun, hể ráo miệng thì thôi, tỷ như đống lửa đốt giữa trời cháy hết rồi tự nhiên phải tắt, nếu bây giờ em lau đi đang cơn người ta thịnh nộ thì người ta sẽ đánh em đau thêm nữa, sao em lại dại vậy?" Từ đó người em lại đành chịu ngồi yên, để mặc cho tên kia tha hồ phun nhổ không dám giơ tay lau mặt nữa. Sau tên kia phun hết nước miếng khô miệng rồi, nghĩ lại biết ăn năn tự hối liền quỳ lạy mà xin tha tội, song anh em người kia chẳng những không than oán gì, mà lại chào hỏi và an ủi một cách ôn hòa hơn nữa. Ấy cổ nhân còn nhẫn nại đến thế, huống chi chúng ta là người nhiệt tâm đạo đức, thì há lại không nên lấy tính này làm một gương sáng hay sao! Sách có câu rằng: "Bách nhẫn đường trung hữu thái hòa," nghĩa là nếu hàng ngày trăm điều nhẫn được cả thì trong nhà được hòa thuận vô cùng. Ôi! Ở vào thời đại tranh đua này, thực hành được chữ nhẫn tưởng cũng không phải là dễ, nhưng cũng chẳng phải không thể làm, miễn là có tâm thì dầu khó đến đâu cũng làm được. Hễ ta nhẫn được thì chẳng những thân tâm ta được khoái lạc thảnh thơi mà muôn việc đều thuận hòa em ấm hoàn toàn cả. Ông Hàn Tín trong lúc phong trần, chịu lòn trôn nơi giữa chợ, ai cũng bỉ là nhát gan, nào hay anh hùng ân nhân mà sau lãnh ấn Tề Vương. ông Ngũ Viên đang cơn hoạn nạn, cũng đành thổi tiêu ăn xin, chúng khi khi là hèn mạt, nào ai hay chí sĩ tu tàng mà phút bỗng quyền cao Ngô Tướng. Ôi! Quý hóa thay chữ "nhẫn", vinh diệu thay chữ "nhẫn", ta há chẳng nên trọn đời mình bội hay sao?

Nay chúng ta nhờn ơn ĐỨC CHÍ TÔN hoằng khai Đại Đạo buổi ban sơ khởi đầu này chẳng khỏi có nhiều điều trở ngại khó khăn, vậy ta cần nên thực hành cái công phu từ nhẫn nại trước , rồi sau này ta sẽ cùng nhau dìu dắt lên nền Cao Đài Đạo Đức vậy.

Chữ NHẪN ví tợ thoi vàng,
Ai mà nhẫn được ấy vàng Trời cho.


Message edited by trongtp - Wednesday, 26-05-2010, 7:10 PM
 
trongtp Wednesday, 26-05-2010, 7:08 PM | Message # 4
Colonel
Nhóm: Postor
Bài viết: 164
Danh tiếng: 0
Chữ KHIÊM

"Khiêm tốn, khiêm nhượng", nhĩa là thấp nhường nhỏ nhẹ. "Thánh nhân bất tự mãn túc", như Thánh nhân còn chưa dám cho mình là đầy đủ. "Nghiêu Thuấn Kỳ do bịnh chư". Vua Nghiêu, VuaThuấn còn có chỗ thiếu dốt chăng? Ấy, các bậc thánh hiền còn phải khiêm tốn đến như thế, cái đức tính khiêm tốn là một cái đức tính rất hay rất cần của người ta vậy. Người đời thường hay có tánh tình kiêu ngạo, tự đắc chẳng biết khiêm tốn là gì, nhứt là hạng thượng lưu thời nay thì hay càng tự tôn tự đại, ngạo vật, khinh nhơn, coi mình như Thần, như Thánh, xưng bá, xưng hùng coi người bằng nửa con mắt, tuyệt nhiên không có một chút khiêm nhượng gì cả, tự mình lấy làm nghinh ngang đắc chí, ngoài ra không biết bao nhiêu người đã châm trích, bình phẩm mà mình xỉ tiếu. Cổ nhân có nói rằng: "Khinh bạc chi thái thị, chi quân tử, tắc tán ngộ đức, thị chi tiểu nhân tắc sát ngộ thân". Nghĩa là cái thói khinh bạc đối với người quân tử thì tổn đức tính của mình, mà đối với kẻ tiểu nhân thì hại thân mình.

Người mà không có cái đức tính khiêm tốn thì cái ảnh hưởng lớn đến như thế, chúng ta há nên coi thường sao! Tuy nhiên người có đạo đức thì bao giờ cũng có sẵn một tấm lòng khiêm tốn kính nhường. Biết bổn phận không tranh giành kiêu hãnh cùng ai, ai hơn mình thua, ai cao mình thấp, ai tới mình lui, xử lý tiếp vật bao giờ cũng lấy một chữ KHIÊM làm chủ nghĩa, không hề xao lãng chút nào, chẳng phải ta khiêm tốn tự giảm giá trị của ta đi đâu, cái đức khiêm tốn chính là cái đức cao thượng của ta đó. Như trái khí cầu cao su kia tuy mình bóp móp vào, nhưng rồi nó lại tự nhiên trở ra như cũ, chưa hề có hủng chút nào, hể ta càng khiêm tốn bao nhiêu thì cái giá trị của ta lại càng tăng lên bấy nhiêu, mà cái giá trị đó mới thiệt là chơn chánh đó vậy.

Ông Quý Trát mấy lần nhường ngôi cho nước Ngô, đời sau còn xưng là Thịnh Đức. Ông Tiên Chúa ba lượt nhường vị Từ Châu đến nay còn để tiếng anh hùng. Vua Võ xướng xe lạy người nói phải. Vua Thang đi bộ rước bậc đại hiền. Ôi! Đến bậc hào kiệt Thánh hiềnThượng cổ còn khiêm cung hạ sỉ, bao giờ cũng tự coi mình như thiếu kém hổ ngươi, phương chi chúng ta ngày nay đã có đức tình gì hơn mà dám kiêu ngạo khinh bạc.

Ta thường thyấy nhiều người tài cao, trí lớn, thấy rộng, nghe nhiều, đáng lẽ có thể làm nên người đạo đức hoàn toàn, vậy mà vì tánh hiếu thắng kiêu căng, không có đức ôn nhu khiêm tốn, thành ra uổng phí cả đời người, đến đỗi ai ai cũng đem lòng khinh bỉ, thiệt là đáng tiếc lắm vậy.

Nói tóm lại thì cái công dụng của chữ Khiêm đối với các phương diện ở đời đều cần phải thật hành cả. Trong gia đình có nhiều người biết khiêm tốn thì gia đình sẽ trở nên hòa thuận; trong xã hội có nhiều bực khiêm tốn thì xã hội được thái bình. Đạo đức có khiêm tốn thì đạo đức được hoàn toàn, tôn giáo có khiêm tốn thì tôn giáo mới được thịnh vượng. Chữ khiêm đối với các đức tính của loài người , thiệt không thể một giây phút nào xao lãng được. Vã đời này là một đời Đại Đồng giao thiệp, nếu không có cái đức tính khiêm tốn, thì còn giao thiệp được với ai, còn mong gì đến phổ thông đạo đức nữa.

Từ khi nền Đại Đạo hoằng khai, ĐỨC CHÍ TÔN rộng lòng phổ độ, cái quy củ nền Tôn giáo chúng ta được như ngày nay, thiệt không phải là không rộng lớn, cái công phu của chúng ta đối với nên đạo thiệt không phải là chẳng tôn nghiêm. Song, xét cho kỹ thì phần nhiều chỉ ở bề hình thức bề ngoài, chớ đến tinh thần đức tính bề trong thì còn nhiều điều khiếm khuyết, mà nhứt là thuộc về cái đức tính khiêm cung thì lại càng không nở nói. Có nhiều vị hình như đã vì sự tài lợi thế lực chớ chẳng phải có nhân tâm về đạo đức.

Ôi! Đã một lòng ham mộ đạo đức thì tưởng còn màng gì đến cái danh giá hảo huyền, cái cao sang giả dối miễn là mình thực hành đặng đạo đức cho hoàn toàn, thì mình chẳng cần gì khoe thị cùng ai, mà tự khắc cái cao sang danh giá thuộc về tinh thần sẽ từ trong cái đức khiêm tốn mà ra.

Ít lâu nay trong Đạo thường hay xảy ra điều lộn xộn, cơ hồ làm ngăn trở cho việc hành đạo của chúng ta có lẽ là vì ở nhiều vị đạo hữu không đủ cái đức tính khiêm tốn và cũng chưa được từng hưởng thụ công năng của chữ khiêm ấy.

Nay Tam Kỳ Đại Đạo đã đến kỳ Phổ độ xuyển minh, nếu ai được hữu tâm cầu Đạo thì ĐỨC CHÍ TÔN cũng sẵn lòng cho được hưởng thọ mà hối cải tội xưa. Đối với cái trình độ nhập môn Cầu Đạo của chúng ta ngày nay, thì thiết tưởng trước hết c6àn phải tu tỉnh cái đức tính khiêm tốn làm đầu.

Bởi vậy cho nên Bần Đạo xin đặt chữ Khiêm vào một điều trong năm điều "Ngũ Đức Lương Châm", dám mong rằng chư Đạo hữu ngày gia tam tu luyện thì sao này mới ngõ hầu nên người đạo đức hoàn toàn được.

 
trongtp Friday, 28-05-2010, 6:58 PM | Message # 5
Colonel
Nhóm: Postor
Bài viết: 164
Danh tiếng: 0
Chữ CUNG

CUNG KỈNH nghĩa là: Đối với hết thảy các sự vật ở đời, cùng các hành vi cử chỉ của mình thường thường phải giữ một tấm lòng cung kỉnh thận trọng và phải lánh xa những điều lỗ mãng khinh lờn, lúc nào cũng phải coi mình như giữa chốn triều đình đứng trên sân tế lễ, dẫu ngồi trong nhà kín cũng tưởng như mười tai, mười mắt trong vào. Trong Kinh Thơ có câu: "Như lâm thâm uyên như lý bạc băng". Nghĩa là: coi mình như đến vực sâu như nơi đá mỏng, đều là cực tả, cái cách cử động của cổ nhân cung kỉnh đến như thế. Loài người sở dĩ linh thiêng hơn muôn vật tưởng cũng một phân nửa nhờ ở cái đức tính cung kỉnh vậy. Nếu người chỉ biết ăn thì ăn, hể thấy đói thì nói, no ấm thì vui cười hê hả, hể đói rách thì lo buồn băn khoăn, sống tám chín chục tuổi đẻ năm mười đứa con, còn ngoài ra mờ mờ mịch mịch, chẳng biết cung kỉnh lễ nghĩa là gì? Cử chỉ thì thô bỉ, cộc cằn, hành vi dong dài lỗ mãng, trơ như đá, vững như đồng, như vậy phỏng có khác gì con bù nhìn canh đám dưa, một bộ máy vô tình giữa chợ. Thiết tưởng những hạng người đó chỉ là hạng người vá áo túi cơm, đời mà có nhiều hạng người đó thiệt là bất hạnh cho đời lắm vậy, chỉ nên là một giống sâu mọt dáng lằm mà thôi. Ôi! Một cái đức tính làm người mà không để ý đến thì còn trông gì giồi mài đạo đức nữa. Tuy nhiên ai đã thực hành được cái đức tính hòa nhẫn, khiêm thì tức khắc là lãnh hội đặng cái thâm ý chữ CUNG có lẽ thật hành cũng không khó gì. Khó mà nên chăng bởi tại lòng ta. Đức Khổng Tử bàn những đức tính hay của người Quân tử có năm điều là: Ôn, Lương, Cung, Khiêm, Nhượng mà chữ Cung cũng đứng ở trong, xem thế cũng đủ biết Đấng Thánh Nhân dạy đời cũng phải lấy chữ Cung làm một bổn phận lớn ở trong đức tính người ta vậy.

Vua tôi có cung kính thì thiên hạ mới thái bình, cho nên Vua Nghiêu đối với bá quan thường dùng một chữ Khiêm làm lời dặn dạy, mà còn tiếng Thánh Quân. Cha con có cung kỉnh thì gia đình mới thạnh vượng, cho nên Vua Thuấn thờ cha mẹ một niềm thủ kính đến trọn đời muôn thuở còn lưu danh đại hiếu. Anh emcùng nhau cung kỉnh mới có tình cảm thương yêu. Ngày xưa ông Lý Tích làm quan to, ông đã già mà vẫnn cung kính bà chị một cách khác thường. Một hôm bà chị đau, ông thân hành đi nấu cháo cho bà chị ăn, rủi bị ngọn lửa tạt cháy rụi cả râu, bà chị thấy vậy nói rằng: "Nhà thiếu gì tôi tớ mà em lại chịu cực khổ làm chi vậy?" Ông Thưa rằng: " Nay chị đã già mà em cũng đã già rồi, dẫu em muốn nấu cháo cho chị ăn mã phỏng dễ mà được hay sao?"

Vợ chồng cùng nhau cung kỉnh thì mới nên ân ái thuận hòa. Cưa vợ chồng ông Khước Khuyết tương kính như tân, nghĩa là vợ chồng kính nhường nhau như khách quý, thường ngày ông đi cày bà vợ ở nhà đem cơm, tất nhiên hai tay quỳ dâng ngang mày cho chồng, rồi chắp tay hầu đến rồi mới thôi, tuyệt không có hở chút gì khing mạng. Một hôm có một vị quan Đại Phu đi ngang qua ngó thấy cách cung kỉnh vợ chồng như vậy, bèn về tâu lại với Vua Tân. Vua bèn phòng cho ông Chức Hạ Đại Phu-"Vợ ngoan làm quan cho chồng" là thế.

Bậu bạn đối với nhau cung kỉnh thì tình nghĩa mới lâu dài. Vì Tiên Chúa, Đức Quan Thánh, ông Trương Phi, ba Ngài kết nghĩa tại vườn Đào cùng nhau sống thác, mà tấm lòng cung kỉnh vẫn không sai, người nay còn mến đức. Ôi! Chúng ta nhắc nhở những tích nói trên này một lòng ta bồi hồi cảm động biết bao nhiêu.

Mới hay rằng: Cái đức tính khiêm cung đối với trong NGũ Luân rất nên có ảnh hưởng mất thiết lắm vậy. Chúng ta nay nhờ ơn Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế rủ lòng thương tới, đem nền Đại Đạo mà Phổ Độ cho chúng sanh, lúc này là lúc chúng ta nên vui lòng cầu Đạo, song cái con đường cầu Đạo lại chính là ở cái tính khiêm cung. Khiêm cung là thế nào? Trong những bài Bần Đạo nói đây chắc chư Đạo hữu cũng đã lãnh hội một đôi điều ngạnh khái. Song, Bần Đạo thường thấy phần nhiều chư đạo hữu, hoặc là chưa rõ đạo đức thế nào chăng? Hay là không để ý đến lễ nghĩa chăng? Coi bộ hình cái đức tính khiêm cung rất là thiếu kém, đối với các anh em trong đạo hữu thì thường lấy cái dung mạo bề ngoài mà giao thiệp, lộ hình kẻ khinh người trọng, ở trong hay lấy những lời kiêu ngạo mà phỉ báng đồng bào, trong Đạo. Ôi! Đã là người chung ở trong nền Đại Đạo, Tôn giáo Đạo Đức thì lẽ nào lại còn phân đẳng hạng quý tiện mà khinh bỉ nhau nữa sao? Chư Đạo hữu hãy dùng cái nhãn quan đạo đức mà xét lại coi, thiệt khiến cho lương tâm mình thêm hổ thẹn vậy.

Thậm chí Bần Đạo thường thấy nhiều người đến nơi các Thánh Thất là nơi rất tôn nghiêm long trọng của mình, đã tín ngưỡng tôn sùng, mà cũng cứ nghiễm nhiên không hề thủ lễ, coi dường như đến các nơi nhà tửu quán trà lầu, tuyệt không có một chút gì là cung kỉnh cả. Nghĩ cũng khả ố thay những hạng người đó. Tụng kinh cầu Đạo!!! Tưởng không cần trả lời vậy.

Bởi các lẽ đó nên Bần Đạo cần phải nhắc đi nhắc lại cùng chư Đạo hữu cái công trình chữ Cung ở trong cuốn "Tam Kỳ NGũ Đức Lương Châm" này.

Mong rằng chư Đạo hữu sẽ vui lòng để ý đến cho Bần Đạo thiệt lấy làm tham vọng.

Message edited by trongtp - Friday, 28-05-2010, 7:00 PM
 
trongtp Monday, 31-05-2010, 12:04 PM | Message # 6
Colonel
Nhóm: Postor
Bài viết: 164
Danh tiếng: 0
Chữ ÁI

"Nhân ái, bác ái" nghĩa là: Thương yêu rộng yêu. Chữ yêu đây thuộc về cái tinh thần, yêu đạo đức, cái yêu rất thâm trầm chớ chẳng phải cái yêu về thất tình lục dục. Người ta ai đã đủ cái đức tính hòa nhẫn khiêm cung rồi mới đặng cái bậc bác ái, nhà đạo đức mà đã tâm đắc và thực hành chữ bác ái thì đã có cơ siêu trần thoát tục.

Đức Khổng Tử có nói rằng: "Quân tử học Đạo thì mới biết yêu người, kẻ tiểu nhân có học Đạo thì mới dễ sai khiến" lại có câu rằng "Duy Thánh nhân năng hiếu nhân, năng ố nhân". Nghĩa là duy có Đức Thánh nhân mới biết yêu người ghét người. Xem thế đủ biết dầu cho bực Thánh nhân cũng phải lấy chữ "ái".

Bàn về đạo đức thì có lẽ suy tôn chữ "Ái" làm đầu, vì có yêu đời mới biết đời, cũng vì cái chủ nghĩa yêu thương đời mà phát minh ra vấn đề đạo đức vậy.

Xem như Đạo Nho thì lấy hai chữ "nhân ái" làm trọng. Dương Châu thì lấy ahi chữ "khiêm ái" làm đầu. Đạo Phật thì lấy "từ bi bác ái" làm chủ nghĩa. Đức Thích Ca có nói rằng: "Nếu chúng sanh chưa đặng thành Phật thì ta cũng nguyện chưa thành Phật". Vậy Đạo Thiên Chúa cũng lấy câu: "Xã kỳ ái nhân" làm mục đích". Đức Jesus có nói rằng: "Nếu đời còn một người tội lỗi thì ta quyết mãi đứng trên cây thập tự". Xem thế thì các bậc giáo chủ xưa nay đã phát minh ra đạo đức để cứu chữa cho đời, chẳng qua cũng là bởi tấm lòng yêu thương đời mà ra vậy.

Người ta sở dĩ ăn ở cùng nhau đặng hòa thuận êm đềm giao thiệp cùng nhau được thân quen vui vẻ, sanh hoạt bằng một cách lý thú trên đời, đều là nhờ ở cái đức tính nhân ái cả, vì có biết đem tấm lòng nhân ái mà đối đãi với nhau thì mới có cái cảm tình mới bền chặt mối dây liên lạc mà gây ra ra nên cái tình đoàn thể đặng. Cổ nhân có câu rằng: "Tứ hải như nhứt gia". Nghĩa là bốn biển như một nhà, ý nói người ta sinh ra ở đời đều một hình thể, đều có trí giác, thì cũng là một loài người,vô luận là giống nào, nước nào cũng đều xem nhau bằng một cách thân thiết, đối đãi nhau bằng một cái thân yêu, mà không nên phân biệt; có được như vậy thì mới thiệt là bác ái. Thật hành cái tư tưởng bác ái là cùng nhau một dạ thương yêu thì sự xâu xé cạnh tranh còn tự đâu mà sanh ra nữa. Nếu người mà chỉ biết ích kỷ, nghĩa là chỉ biết có một mình mà thôi, còn ngoài ra không kể đến ai,đối với đồng loại chẳng có cảm tình liên lạc gì, đồng bào coi nhau như gưom giáo, nồi giống coi nhau như khấu thù, hình như mình không có quan hệ gì đến đời cả. Người mà như vậy thì thiệt kà người đã vô tình thì còn biết gì là Bác ái.

Ôi! Đến loài người mà không có lòng nhân thì đối giống cỏ cây cầm thú phỏng có hơn chi, nước nào mà không mất, nhà nào mà không tan, tôn giáo nào mà chẳng suy vong, đạo đức nào mà không tồi bại. Ấy, những hạng người đó ở đời này phỏng có hiếm chi, chẳng nước nào, chẳng giống nào mà chẳng có. Song đối chiếu với nước nhà ta thì không phải là số ít, những hạng người đó thiệt là có hại cho đời, tưởng chẳng khác chi người có bệnh tê bại, bịnh liệt thần kinh vậy, cái bịnh liệt thần kinh đó lấy phương thuốc gì mà chữa bây giờ? Có lẽ ngoài cái phương đạo đức ra thì chẳng còn thuốc gì hơn, mà cần nhứt phải lấy vị thuốc nhân ái làm đầu thang vậy.

Tuy nhiên cái đức tính nhân ái đành phải thực hành song cái công phu nhân ái cũng cần nên luyện tự cận cầu viễn, do thiển cập thâm.

Message edited by trongtp - Thursday, 03-06-2010, 8:21 PM
 
trongtp Saturday, 05-06-2010, 8:35 PM | Message # 7
Colonel
Nhóm: Postor
Bài viết: 164
Danh tiếng: 0
Nghĩa là: Nói gần tới xa, lần lần cạn tới sâu nếu ta muốn rèn cái đức tính bác ái đành phải thực hành, thì trước hết phải yêu ta. Ta tự yêu chẳng phải là ta muốn cái lòng vật dục của ta đâu? Nghĩa là: Ta yêu cái chơn lý ở đời, yêu cái đức hạnh của người tức là yêu cái chơn chánh đạo đức, như vậy thì ta mới biết yêu ta... Ta có biết yêu ta rồi thì mới biết yêu nhà, yêu nước, trong yêu cha mẹ yêu anh em, ngoài thì thương yêu giống loại khắp trong hoàn cầu, ta phải làm sao thực hành cho đặng câu "Tứ hải chi nội giai huynh đệ". Nghĩa là: "Người trong bốn biển đều anh em, thiệt mới tròn cái đức tính nhân ái vậy.

Đời nay thường thấy nhiều người cứ hy vọng cái chủ nghĩa "Thế giới hòa bình" cùng thực hành cái vấn đề tự do bình đẳng mà chẳng thèm ngó ngàng tới cái lương năng bác ái thì thiệt là lầm to. Cách ngôn Thái tây có câu rằng: "Có đồng đẳng mới bình đẳng được đồng đẳng tức là suy nguyên biểu dương hai chữ bác ái đó.

Trên kia đã nói loài người đã biết thương yêu nhau thì mới biết có tình đoàn thể mà kết nên mối dây liên lạc được. Nếu ai chẳng biết thương yêu ai mỗi người một dạ một lòng xâu xé lẫn nhau, tranh giành lẫn nhau thì thế giới còn trông mong gì hòa bình, nhân loại còn mong gì tự do bình đẳng; phỏng có khác gì leo cây mà tìm cá, xuống biển để bắt chim thì bao giờ cho được. Than ôi! Cuộc thế suy đồi lòng người quỷ quái, gặm xương nồi giống, xẻ thịt lẫn nhau. Hàng ngày xảy ra những tấn tuồng thảm thương bi kịch, ngó đã mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, khiến cho giọt lụy thương tâm của khách ưu thời mẫn thế, không thể nào ngừng lại được.

May sao Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế còn thương tới chúng sanh, đem đại Đạo mà hoằng khai phổ độ cái thời kì này tức là cái thời kỳ của chúng ta sẽ đặng thoát ly cái vòng khổ hải rồi đây. Cho nên Đức Chí Tôn Ngài lấy lòng từ bi mà sắc lịnh ban bố cho chúng ta, buộc chúng ta phải kỉnh yêu đồng loại thương xót lẫn nhau, cứ noi theo Đạo đức mà làm thì ngõ hầu mới thoát qua đặng đời mạt kiếp. Ấy tấm lòng háo sanh của Chí Tôn ân cần đến như thế, chúng ta há phải loài sắn cỏ mà không cảm động chút tình hay sao?

 
  • Page 1 of 1
  • 1
Search: